Khảo sát

Bạn đánh giá thế nào về công tác chống dịch hiện nay ở Hà Nội?
  • Rất tốt

    Số phiếu: 5 83.3%
  • Chưa tốt lắm

    Số phiếu: 1 16.7%
  • Rất kém

    Số phiếu: 0 0.0%

Cửa khẩu Mường Khương hay cửa khẩu Tung Chung Phố - lào cai

C
Cửa khẩu Mường Khương hay cửa khẩu Tung Chung Phốcửa khẩu quốc gia tại vùng đất thị trấn Mường Khương và xã Tung Chung Phố huyện Mường Khương tỉnh Lào Cai, Việt Nam

Cửa khẩu Mường Khương ở điểm cuối quốc lộ 4D, thông thương sang cửa khẩu Kiều Đầu ở thị trấn Vân Sơn huyện Mã Quan tỉnh Vân Nam, Trung Quốc
Cửa khẩu Mường Khương được đặt trong khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai, với hoạt động được quy định trong Quyết định của UBND tỉnh Lào Cai về "Công bố Cửa khẩu Mường Khương, huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai được phép tái xuất hàng hóa.

1644371375599.png

Giới thiệu về huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai​

Trên không gian trải rộng 55.614,53 ha của huyện Mường Khương có tới 3 tiểu vùng khí hậu: nhiệt đới, á nhiệt đới và ôn đới. Đất trời đã phú cho huyện khả năng phát triển một nền nông nghiệp háng hoá đa dạng về sản phẩm. Những đặc sản nông nghiệp nổi tiếng nhất của Mường Khương là: gạo Séng Cù, đậu tương vàng và lợn ỷ Mường Khương, dứa Bản Lầu, chè tuyết shan Thanh Bình, mận hậu Cao Sơn, lê Pha Long, tương ớt, thảo quả, tam thất… Với hướng phát triển bền vững, phần lớn những sản phẩm trên đang được xây dựng thương hiệu, gắn vùng nguyên liệu với các cơ sở chế biến. Mường Khương là huyện sở hữu nhiều thương hiệu nông sản nhất của tỉnh Lào Cai.
Huyện Mường Khương có 14 dân tộc anh em chung sống hòa thuận, có đặc trưng tộc người độc đáo. Dân số toàn huyện theo số liệu điều tra dân số và nhà ở, đến 1/4/2009 có 52.030 người/11.098 hộ. Trong đó Nam là: 25.554 người chiếm 49,58%, Nữ 25.989 = 50,42%. mật độ dân số 93 người/ km2, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 1,82%. Trong đó Dân tộc Mông chiếm 41,78%. Dân tộc Nùng chiếm 26,8%, dân tộc Dao chiếm 5,75%, Dân tộc dáy chiếm 3,74%, Dân tộc Bố Y (Tu Dí) chiếm 2,59%, Dân tộc Kinh (Việt) chiếm 11,98%. Ngoài ra còn một số dân tộc khác có dân số ít như dân tộc Phù Lá, Ha, Mường, Lô Lô... chiếm 6,8% dân số toàn huyện tạo thành một không gian folklo (truyền thống dân gian) nguyên bản và đậm đặc, với những làng cổ của người Nùng, người Mông, những lễ hội rải rác quanh năm như: Lễ hội Gầu tào (Say sán) Lễ Cấm rừng, Lễ mừng chiến thắng…. Trong bức họa đồ biên giới Mường Khương bốn mùa xanh tươi và kỳ vĩ, những dải sơn nguyên đá vôi có nhiều hang động và thác nước đẹp như hang Hàm Rồng, thác Tà Lâm, thác Páo Tủng, núi trống đồng Lũng Pâu, hang Na Măng - Tỉn Thàng, hang Tiên Nấm Oọc, cầu đá thiên tạo trên dòng suối Văng Leng dào dạt. Mường Khương hợp cùng Bắc Hà và Si Ma Cai thành vùng du lịch phía đông, đang được tỉnh Lào Cai kêu gọi các doanh nghiệp cùng bắt tay vào khai phát.
Có đường Quốc lộ 4D được nâng cấp đã nối gần khoảng cách từ Mường Khương về thành phố Lào Cai. Huyện còn có cửa khẩu quốc gia, thông thương với các huyện Hà Khẩu và Mã Quan của nước bạn. Những năm gần đây, cửa khẩu quốc gia Mường Khương đã thu hút được nhiều doanh nghiệp đến kinh doanh.
Theo truyền khẩu, Mường Khương từ xưa có tên gọi là Mưng Khảng theo tiến địa phương dịch sang tiếng phổ thông là Mường Gang. Quá trình biến đổi của thời gian tên gọi được biến âm đọc chệch đi là Mường Khương; đến thời Pháp thuộc danh xưng Mường Khương được gọi một cách thông dụng. Mường Khương không chỉ là đất thép kiên cường trong những tháng năm khói lửa, mà còn là là mảnh đất của ý chí sắt thép vượt lên cái nghèo và lạc hậu, biến những tiềm năng trở thành hiện thực.
Mường Khương cùng với địa bàn Tỉnh Lào Cai, thời Vua Hùng dựng nước thuộc bộ Tân Hưng; thời Bắc thuộc đời nhà Đường thuộc đất của Châu Chu Quý và Châu Đan Đường; đến đời nhà Lý thuộc đất Đăng Châu; đời nhà Trần tiếp đến đời Nhà Nguyễn thuộc Châu Thuỷ Vĩ. Sau Thực dân Pháp đánh chiếm Lào Cai ngày 30/3/1886 Mường Khương và các đơn vị của tỉnh Lào Cai thuộc đạo quan binh IV. Vùng đất Mường Khương khi đó gọi là Động Sơn Yên. Động Yên Sơn sau này được gọi là Mường Khương.
Năm 1959, ở Pha Long - Mường Khương, đã phát hiện Trống đồng có niên đại cách ngày nay 4.000 năm.
Tháng 11/1946 tỉnh Lào Cai được giải phóng khỏi ách Việt Nam Quốc dân Đảng, chính quyền của ta đổi tên từ Châu sang huyện, chia tỉnh Lào Cai thành 8 huyện, trong đó có huyện Mường Khương.Vùng đất Mường Khương được chia thành 24 xã, tên của các xã đó là: Thống Nhất, Đoàn Kết, Kiến Thiết, Quang Vinh, Hoà Bình, Chính Nghĩa, Ái Quốc, Nỗ Lực, Tiến Bộ, Dân Chủ, Cộng Hoà, Tiên Tiến, Thanh Bình, Phú Cường, Cứu Quốc, Chiến Thắng, Trung Thành, Đồng Tâm, Quyết Định, Tự Do, Hạnh Phúc,Độc Lập, Thắng Lợi, Thành Công.
Năm 1976 Quốc hội quyết định sát nhập 3 tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Nghĩa Lộ thành tỉnh Hoàng Liên Sơn, Mường Khương thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn.
Đến tháng 4/1980 Hội đồng Bộ trưởng quyết định chuyển 02 xã Bản PhiệtBản Cầm về huyện Bảo Thắng. Đồng thời sáp nhập và đổi tên một số xã thành 16 xã cho đến ngày nay. Được chia làm 4 khu vực: Khu vực vùng thấp gồm 03 xã: Bản Lầu, Bản Xen, Lùng Vai; khu vực vùng trung huyện gồm 5 xã: Mường Khương, Tung Chung Phố, Thanh Bình, Nấm Lư, Nậm Chảy; khu vực vùng cao gồm 4 xã: Cao Sơn, La Pán Tẩn, Tả Thàng, Lùng Khấu Nhin. Khu Pha Long gồm 4 xã: Pha Long, Dìn Chin, Tả Gia Khâu, Tả Ngài Chồ.
Mường Khương là huyện vùng cao biên giới có vị trí quan trọng về quốc phòng – an ninh. Nhân dân các dân tộc có truyền thống đoàn kết đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Từ khi có Đảng lãnh đạo, mà trực tiếp là Đảng bộ huyện Mường Khương (thành lập ngày 1/3/1950), truyền thống quý báu đó lại được nhân lên. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, tiễu Phỉ dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện, nhân dân các dân tộc huyện Mường Khương anh dũng, kiên cường chiến đấu giải phóng huyện Mường Khương vào ngày 11/11/1950. Đồng thời đóng góp sức người, sức của cho 02 cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ và bảo vệ từng tấc đất Biên cương của Tổ Quốc Việt Nam XHCN, xây dựng quê hương ngày một giầu về kinh tế, mạnh về quốc phòng, an ninh. Với những thành tích đó huyện Mường Khương được Đảng, Nhà nước tặng danh hiệu cao quý "ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN" và Huân chương Lao động hạng Nhì, hạng Ba.
* Địa hình:
Địa hình có nhiều vực sâu chia cắt xem kẽ các dải thung lũng hẹp. Độ cao trung bình so với mực nước biển tại thị trấn là 900 m, đỉnh cao nhất trên 1.600 m (La Pán Tẩn). Mạng lưới sông suối phân bố rải rác chiếm 1,46% tổng diện tích tự nhiên.
* Đặc điểm khí hậu:
Khí hậu Mường Khương mang tính chất á nhiệt đới một năm có hai mùa rõ rệt. Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 15-160C; mùa Đông rét đậm, nhiệt độ có thể xuống dưới 00C, mùa hè mát nhiệt độ cao nhất là 350C.
* Thổ nhưỡng, đất đai: Trên địa bàn huyện Mường Khương chủ yếu là loại đất feralít phát triển trên đá biến chất. Tổng diện tích tự nhiên của huyện 55.614,53ha, diện tích đất canh tác đất nông nghiệp thấp, có 9.824,92 ha (chiếm 17,66%); đất lâm nghiệp có 21.393,4 ha chiếm 38,46 %; còn lại chủ yếu đất có độ dốc cao chưa sử dụng là 21.827,16 ha chiếm 43,88%.
* Nguồn khoáng sản: Theo kết quả khảo sát trên địa bàn huyện có mỏ sắt khu vực Na Lốc - xã Bản Lầu. Mỏ Chì, Kẽm ở khu Cao Sơn, La Pan Tẩn.Mỏ Atimon ở xã Nậm Chảy chạy dọc biên giới Việt – Trung.

Cửa khẩu chỉ để tư thương qua lại mua bán quýt​

Thứ tư, 28/02/2018 07:34 GMT+7
(PLO) - Thỉnh thoảng mới có vài đợt hàng tạm nhập, tái xuất qua cửa khẩu Mường Khương, tỉnh Lào Cai nên cửa khẩu chủ yếu phục vụ những tư thương qua lại mua bán quýt.
Cửa khẩu chỉ để tư thương qua lại mua bán quýt

Nhãn hiệu “Quýt Mường Khương” được Cục Sở hữu trí tuệ công nhận thương hiệu và cấp Giấy chứng nhận, giúp sản phẩm này có chỗ đứng vững và vươn xa hơn trên thị trường.
Khi một bên là cửa khẩu, một bên là lối mở
Vượt qua 7km đường đèo dốc, xung quanh đồi núi trập trùng từ Đồn Biên phòng Mường Khương, Bộ đội Biên phòng (BĐBP) Lào Cai lên Cửa khẩu Mường Khương, chúng tôi không thấy hàng hóa và người qua lại. Cửa khẩu Mường Khương mỗi ngày chỉ có 5-7 khách xuất nhập cảnh. Vào mùa quýt chín, số lượng người xuất nhập cảnh tăng lên, mỗi ngày có 50 người dân Mường Khương sang Trung Quốc cắt quýt thuê, làm thuê trong ngày. Do chính sách hai bên không thống nhất nên phía Việt Nam quy định Mường Khương là cửa khẩu, phía Trung Quốc đóng cửa khẩu từ ngày 1/8/2014, nay là lối mở Kiều Đầu, dù bên Trung Quốc có quốc môn to đẹp.
Thượng úy Bùi Giang Nam-Trạm trưởng Trạm Kiểm soát Cửa khẩu Mường Khương cho biết: “Bên Việt Nam, Mường Khương là cửa khẩu nên có đầy đủ các cơ quan chức năng như hải quan, biên phòng, kiểm dịch… Bên kia chỉ có công an biên phòng Trung Quốc làm các thủ tục xuất nhập cảnh cho người dân qua lại thăm thân, làm ăn, buôn bán. Kinh tế cửa khẩu chủ yếu là mua bán quýt. Lâu lắm rồi hàng hóa không đi qua đây. Do chủ trương, chính sách điều tiết hàng nhập khẩu phía Trung Quốc nên thỉnh thoảng có vài đợt hàng tạm nhập, tái xuất qua cửa khẩu này. Ví dụ, cuối năm 2016 hàng đông lạnh đi qua đây”.
Hai thôn giáp biên là Lao Chải và Chúng Chỉa B cách cửa khẩu 1km. Bà con trồng quýt và ngô trên vách núi đá cheo leo. Gần cửa khẩu, một số người dân bày bán quýt, xe tải đang nhập hàng. Quýt được buôn về xuôi bán và xuất ngoại sang Trung Quốc. Chị Lò Thị Liên người Tu Dí ở thôn Lao Chải cho biết: “Năm 2015, nơi đây có tuyết rơi, cây cối hỏng hết lá. Trâu bò, lợn gà đi nhà ngoại hết rồi, quýt mới trồng chưa được thu hoạch nên phải đi làm thuê”. Rồi chị giải thích là trâu bò rét quá nên chết cóng.
Đồn Biên phòng Mường Khương quản lý địa bàn 2 xã Tung Chung Phố và thị trấn Mường Khương. Cây quýt, cây sa nhân thành cây chủ đạo nơi đây. Quýt được đưa vào trồng thử nghiệm tại huyện Mường Khương từ năm 2002. Ban đầu mới chỉ thực hiện trên diện tích 2 ha. Sau 3 năm cây quýt bắt đầu ra trái nhưng phải trồng 5 năm mới được thu hoạch quả. Quýt trồng tại Mường Khương gồm 3 loại: Quýt chín sớm (quýt bột - cho thu hoạch từ tháng 9 đến cuối tháng 10), quýt trung vụ (chủ yếu là quýt sen - cho thu hoạch từ cuối tháng 10 đến đầu tháng 12), quýt chín muộn (cho thu hoạch sau tháng 12). Doanh thu từ trồng quýt cao gấp 10 lần so với trồng cây ngô nên từ năm 2013, huyện Mường Khương đã chủ động đưa Dự án trồng quýt vào thâm canh ở các xã: Tung Chung Phố, Pha Long, Tả Gia Khâu, Tả Ngải Chồ và thị trấn Mường Khương.
Anh Pờ Chín Sài - Trưởng thôn 1, Chúng Chải B, thị trấn Mường Khương cho biết thôn có 37 hộ dân, 165 khẩu. Nhà anh có 2.000m2 trồng lúa, cấy 1 vụ. Do ruộng bậc thang nên mỗi năm cấy một vụ. Mưa xuống, tháng 4, tháng 5 mới có nước trời, có ruộng phải chờ mãi mới có nước cấy. Ngoài ra, nhà anh Sài trồng 5.000 cây quýt, trên 4-5 mảnh ruộng. Mới có 1.000 cây thu hoạch, 4.000 cây còn lại sang năm mới thu hoạch vụ đầu tiên. Một cây quýt trung bình thu hoạch từ 50-60 kg quýt. Anh Sài cho biết thêm, trồng cây năng suất nhất chỉ có quýt. Rẻ nhất là ngô, một cây quýt thu hoạch 20-30kg bán mấy trăm nghìn đồng, ngô chỉ có 4.000 đồng/1kg, sang năm không trồng nữa. Bán quýt mua ngô thoải mái.
Tối 11/11/2017, tại huyện Mường Khương, UBND tỉnh Lào Cai đã khai mạc Lễ hội quýt gắn với công bố nhãn hiệu “Quýt Mường Khương”. Nhãn hiệu “Quýt Mường Khương” được Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) công nhận thương hiệu và cấp Giấy chứng nhận. Đây là đặc sản thứ 3 của địa phương (sau sản phẩm ớt và gạo Séng Cù) được công nhận nhãn hiệu gắn với địa danh, giúp các sản phẩm này có chỗ đứng vững và vươn xa hơn trên thị trường.
Không bỏ trứng vào một giỏ
Dù giá quýt rất cao từ 10-20 nghìn đồng/1kg nhưng từ những bài học kinh nghiệm dứa đắng, chuối đắng của bà con trong huyện nên người dân nơi đây không đổ xô trồng quýt mà còn trồng cây sa nhân. Gia đình ông Phào Seo Phà (dân tộc Mông, ở thôn Cán Hồ, xã Tung Chung Phố) là một trong những hộ tiên phong trồng cây sa nhân. Sau hơn 4 năm trồng, trên 5.000 gốc sa nhân dưới tán rừng đã cho thu hoạch ổn định, thu nhập trên 200 triệu đồng/năm. Nhờ cây sa nhân mà từ một hộ nghèo trong thôn, ông Phà đã thoát nghèo, xây được ngôi nhà khang trang và mua sắm được nhiều vật dụng sinh hoạt cho gia đình. Ông Phà cho biết, so với các loại cây trồng khác, trồng cây sa nhân không phải làm cỏ mà chỉ phải bón phân một lần duy nhất vào lúc mới trồng, nên ít tốn chi phí đầu tư, hiệu quả kinh tế cao.
Từ hiệu quả bước đầu, đến nay gia đình ông Phà lại tiếp tục trồng thêm 7.000 gốc sa nhân nữa. Đặc biệt đến nay, nhiều hộ gia đình trong xã Tung Chung Phố đã mạnh dạn nhân giống và trồng dưới tán rừng với diện tích trên 10ha, tất cả đều phát triển tốt. Điều này khẳng định với thổ nhưỡng và điều kiện đất đai ở Tung Chung Phố phù hợp với cây sa nhân, nhất là phù hợp với tập quán canh tác của đồng bào dân tộc thiểu số.
Ông Sền Quang Thảo - Bí thư xã Tung Chung Phố cho biết, sa nhân là cây dược liệu quý được trồng dưới tán rừng già, sau 3 năm thì bắt đầu cho thu hoạch. Hiện, năng suất trung bình của cây sa nhân đạt từ 100 - 200kg quả khô/ha/năm. Với giá bán dao động từ 100.000 - 200.000 đồng/kg quả khô, cây sa nhân mang lại thu nhập khoảng 40 triệu đồng/ha... Đặc biệt, cây sa nhân dễ trồng, tận dụng được diện tích đất dưới tán rừng, tốn ít công chăm sóc, giá bán cao, cây trồng sau 2 - 3 năm bắt đầu cho thu hoạch và rễ cây lan tới đâu thì diện tích trồng tự nhiên được mở rộng tới đó; nếu chăm sóc tốt, có thể thu hoạch trong thời gian 10 - 12 năm. Ngoài hiệu quả kinh tế, cây sa nhân trồng dưới tán rừng còn giúp chống rửa trôi và xói mòn đất, góp phần bảo vệ tài nguyên rừng.

 
Thẻ
cửa khẩu mường khương - lào cai
Bình luận
Bên trên